Lấy huyết khối là gì? Các công bố khoa học về Lấy huyết khối

Huyết khối là một tình trạng trong đó máu đông lại và tạo thành khối đặc trong mạch máu. Huyết khối thường xảy ra để ngừng chảy máu khi xảy ra chấn thương hoặc ...

Huyết khối là một tình trạng trong đó máu đông lại và tạo thành khối đặc trong mạch máu. Huyết khối thường xảy ra để ngừng chảy máu khi xảy ra chấn thương hoặc tổn thương. Tuy nhiên, huyết khối cũng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, chẳng hạn như đau tim, đột quỵ hoặc suy tim.
Huyết khối, còn được gọi là huyết tương, là quá trình mà máu đông lại và tạo thành khối đặc trong mạch máu. Bình thường, quá trình đông máu là cần thiết để ngừng chảy máu khi xảy ra chấn thương hoặc tổn thương. Tuy nhiên, khi huyết khối xảy ra trong mạch máu không đúng vị trí hoặc quá mức, nó có thể gây ra những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

Huyết khối có thể xảy ra trong hai dạng chính: huyết khối động mạch và huyết khối tĩnh mạch.

1. Huyết khối động mạch: Đây là loại huyết khối thường xảy ra trong các mạch máu cung cấp máu cho tim và não. Huyết khối động mạch là kết quả của quá trình tắc nghẽn mạch máu bởi các vật chất như chất béo, xơ vữa và các tạp chất khác. Khi huyết khối động mạch tắc nghẽn mạch máu, không đủ máu và oxy được cung cấp đến các bộ phận của cơ thể, dẫn đến các biểu hiện như đau tim, nhồi máu cơ tim và đột quỵ.

2. Huyết khối tĩnh mạch: Đây là loại huyết khối xảy ra trong các tĩnh mạch, thường là ở chân và bẹn. Huyết khối tĩnh mạch thường xảy ra khi dòng máu chảy chậm hoặc tắc nghẽn trong các tĩnh mạch. Điều này có thể xảy ra do yếu tố di chuyển ít (ví dụ: bị liệt, nằm lâu dài), yếu tố nội tiết tăng (ví dụ: thai kỳ, uống thuốc chống thai, uống thuốc chống coag/đông máu), hoặc các vấn đề về huyết đồ và cấu trúc tĩnh mạch. Huyết khối tĩnh mạch có thể dẫn đến viêm tĩnh mạch sâu (phlebitis) hoặc xảy ra cơn đau, sưng và sưng đau trong chân.

Một số yếu tố nguy cơ cho huyết khối bao gồm cao tuổi, gia đình có tiền sử huyết khối, bệnh lý tim mạch, hút thuốc, bệnh tiểu đường, béo phì, sử dụng hormone nữ, mang thai hoặc sau khi sinh. Việc duy trì một lối sống lành mạnh, bao gồm việc tập thể dục thường xuyên, ăn một chế độ ăn uống cân bằng, kiểm soát cân nặng và không hút thuốc có thể giúp giảm nguy cơ huyết khối.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "lấy huyết khối":

KẾT QUẢ BAN ĐẦU ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO TỐI CẤP BẰNG DỤNG CỤ LẤY HUYẾT KHỐI SOLITAIRE KẾT HỢP TIÊU SỢI HUYẾT ĐƯỜNG ĐỘNG MẠCH: NHÂN 2 TRƯỜNG HỢP
Nhồi máu não chiếm khoảng 85% các tai biến mạch não, là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới, nếu qua khỏi cũng thường để lại di chứng nặng nề. Những tiến bộ trong điều trị nhồi máu não, theo cơ chế sinh lý bệnh, dùng thuốc tiêu sợi huyết bằng đường tĩnh mạch giai đoạn sớm trước 3 tiếng đã được khẳng định có hiệu quả. Tuy nhiên chỉ định còn hạn chế liên quan thời gian và các ảnh hưởng toàn thân, hơn nữa phương pháp này tỏ ra kém hiệu quả với các trường hợp tắc mạch lớn. Điều trị tiêu sợi huyết và lấy huyết khối bằng can thiệp nội mạch được thực hiện bằng cách luồn ống thông theo đường động mạch vào vị trí huyết khối để bơm thuốc tiêu sợi huyết và/hoặc lấy cục huyết khối. Các nghiên cứu đa trung tâm đã chỉ ra rằng, điều trị tiêu sợi huyết và lấy huyết khối đường động mạch làm tăng tỉ lệ tái thông, tăng tỉ lệ hồi phục lâm sàng trong nhồi máu não cấp. Chúng tôi báo cáo kết quả ban đầu nhân 2 trường hợp được điều trị bằng lấy huyết khối qua Solitaire kèm bơm thuốc tiêu sợi huyết rtPA đường động mạch.
12. Xác định tỷ lệ và yếu tố tiên lượng tái thông vô ích của lấy huyết khối tuần hoàn trước
Hiện tượng tái thông vô ích được định nghĩa là đầu ra lâm sàng kém (mRS ≥ 3) tại thời điểm 3 tháng mặc dù được tái thông thành công (mTICI 2b-3) thì hiện chưa được đánh giá nhiều ở Việt Nam. Bởi vậy, chúng tôi tiến hành một nghiên cứu mô tả, đơn trung tâm tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 12 năm 2020 tới tháng 2 năm 2022 để bước đầu xác định tỷ lệ và các yếu tố tiên lượng của hiện tượng này. Mẫu nghiên cứu gồm có 80 bệnh nhân có đột quỵ cấp do tắc động mạch lớn tuần hoàn trước trong vòng 4,5 giờ đã được can thiệp lấy huyết khối có hoặc không kèm tiêu huyết khối tĩnh mạch. Đặc điểm mẫu gồm 50 nam (62,5%) và 30 nữ (37,5%); trung vị tuổi 65,5 (IQR, 59 - 74); trung vị điểm NIHSS ban đầu 12 (IQR, 10 - 16); trung vị điểm ASPECTS ban đầu 7 (IQR, 7 - 8); 50% bệnh nhân dùng tiêu huyết khối phối hợp. Tái thông thành công đạt được ở 72 bệnh nhân (90%), trong đó tái thông vô ích gặp ở 24 trường hợp (chiếm 33,3%). Tuổi cao (> 70 tuổi), điểm NIHSS ban đầu cao (> 14 điểm) và số lần lấy huyết khối nhiều (> 2 lần) là các yếu tố tiên lượng độc lập của tái thông vô ích.
#lấy huyết khối #tuần hoàn trước #tái thông vô ích #yếu tố tiên lượng
14. So sánh phương pháp lấy huyết khối trực tiếp với điều trị bắc cầu cho đột quỵ tắc động mạch lớn tuần hoàn trước
Từ tháng 12 năm 2020 tới tháng 2 năm 2022, 80 bệnh nhân đã tham gia và ghép cặp trong nghiên cứu so sánh phương pháp lấy huyết khối trực tiếp với phương pháp bắc cầu tiêu chuẩn. Các chỉ số đầu vào của các bệnh nhân là tương đồng giữa hai nhóm. Sau 90 ngày theo dõi, 25 bệnh nhân (62,5%) ở nhóm lấy huyết khối trực tiếp đạt đầu ra lâm sàng tốt (mRS 0-2) không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 24 bệnh nhân (60,0%) ở nhóm điều trị bắc cầu (OR = 0,9, 95% KTC từ 0,4 tới 2,2, p = 0,82). Tái thông thành công (TICI 2b-3) đạt được ở 90% bệnh nhân trong mỗi nhóm (OR = 1,0, 95% KTC từ 0,2 tới 4,3, p = 1,00). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ chuyển dạng chảy máu hay tỷ lệ tử vong. Các kết quả trong nghiên cứu này của chúng tôi gợi ý không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tính an toàn và hiệu quả của phương pháp lấy huyết khối trực tiếp so với phương pháp điều trị bắc cầu tiêu chuẩn.
#tắc động mạch lớn #tuần hoàn trước #lấy huyết khối trực tiếp #điều trị bắc cầu
Thông báo trường hợp phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi cấp tính trên bệnh nhân đa chấn thương tại bệnh viện Việt Đức
   Thuyên tắc động mạch phổi là bệnh lý phổi gây tử vong cao nhất và là nguyên nhân đứng thứ ba gây tử vong ở bệnh viện. Tỉ lệ tử vong có thể tới 65% nếu chẩn đoán muộn ở giai đoạn có trụy tim mạch. Đã có một số báo cáo trong nƣớc về điều trị nội – ngoại khoa thuyên tắc động mạch phổi trong môi trƣờng ngoại khoa, song chƣa có báo cáo nào về điều trị thuyên tắc động mạch phổi trên bệnh nhân đa chấn thƣơng. Chúng tôi thông báo một trƣờng hợp bệnh nhân nữ 65 tuổi, bị TTĐMP cấp trên bệnh nhân đa chấn thƣơng đã đƣợc phẫu thuật thành công tại khoa Tim mạch và lồng ngực, bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, vào tháng 09/2016, nhằm rút ra nhận xét ban đầu về loại thƣơng tổn nguy hiểm này và nhìn lại y văn.  
#Thuyên tắc động mạch phổi #huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới #lấy huyết khối #PE #pulmonary embolectomy
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU PHƯƠNG PHÁP LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC BẰNG STENT SOLITAIRE TRONG ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO TỐI CẤP
Mục đích: Đánh giá hiệu quả bước đầu của phương pháp lấy huyết khối bắng stent Solitaire ở các bệnh nhân nhồi máu não tối cấp.Phương pháp và kết quả: Trong thời gian từ tháng 05/2012 đến tháng 08/2013 có 14 bệnh nhân bị nhồi máu não tối cấp, được can thiệp lấy huyết khối bằng stent Solitaire 15 lần tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Bạch Mai. Có 5 nam/9 nữ. Tuổi trung bình 58,2 ± 7,9. Thời gian can thiệp trung bình 70,7 ± 40,2 phút. Tỉ lệ tái thông tốt sau can thiệp 80%. Tại thời điểm 3 tháng sau điều trị, 9/14 bệnh nhân phục hồi tốt chiếm 64,3% và 3 bệnh nhân phục hồi chậm chiếm 21,4%. Hai bệnh nhân tử vong chiếm 14,3%.Kết luận: Điều trị lấy huyết khối bằng stent Solitaire ở bệnh nhân nhồi máu não tối cấp là một phương pháp mới, có nhiều triển vọng và bước đầu cho kết quả tốt cả về mức độ tái thông lẫn phục hồi lâm sàng.
Ca lâm sàng: Phẫu thuật lấy huyết khối cho bệnh nhân thuyên tắc động mạch phổi cấp tính có chấn thương sọ não
Thuyên tắc động mạch phổi do huyết khối là một cấp cứu nặng, đòi hỏi phải xử trí nhanh chóng và chính xác. Việc điều trị huyết khối động mạch phổi càng trở nên khó khăn ở những bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao. Chúng tôi xin báo cáo một trường hợp phẫu thuật lấy huyết khối điều trị thành công bệnh nhân thuyên tắc động mạch phổi cấp tính nguy cơ cao trên nền chấn thương sọ não, cũng như xem lại y văn về những trường hợp bệnh nhân tương tự.
#Thuyên tắc động mạch phổi #chấn thương sọ não #phẫu thuật lấy huyết khối động mạch phổi.
SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CAN THIỆP LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC BẰNG HAI PHƯƠNG PHÁP DÙNG STENTRIEVER VÀ DÙNG ỐNG HÚT HUYẾT KHỐI Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP TÍNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề:  Tái thông mạch máu não là một trong những phương pháp điều trị có tính đột phá trong điều trị nhồi máu não cấp tính. Cùng với sự phát triển của các dụng cụ lấy huyết khối, các phương pháp lấy huyết khối ngày càng có nhiều tiến bộ. Hai phương pháp lấy huyết khối phổ biến hiện nay là dùng stentriever và dùng ống hút. Nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả và tính an toàn của hai phương pháp này trong can thiệp lấy huyết khối cơ học (LHK) ở bệnh nhân nhồi máu não (NMN) cấp tính. Đối tượng và phương pháp. 101 bệnh nhân NMN cấp tính do tắc các động mạch (ĐM) lớn thuộc tuần hoàn trước và tuần hoàn sau của não, được chia thành 2 nhóm: nhóm dùng stentriever (n = 68) và nhóm dùng ống hút (n = 33). Phương pháp nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng. Kết quả. Thời gian bắt đầu - kết thúc can thiệp ở nhóm dùng ống hút là 71,1 phút, ngắn hơn có ý nghĩa thống kê so với 133,8 phút ở nhóm dùng stentriever. Không có sự khác biệt về tỷ lệ tái thông tốt sau can thiệp (TICI 2b-3) giữa nhóm dùng stentriever và nhóm dùng ống hút, lần lượt là 77,9% và 78,8 %. Tỷ lệ bệnh nhân phục hồi tốt (mRS 0-2) ở ngày 90 không khác biệt giữa hai nhóm stentriever (55,9%) và ống hút (66,7%). Xuất huyết nội sọ (XHNS) xảy ra ở 22/68 (32,4%) bệnh nhân nhóm dùng stentriever, 9/33 (27,3%) bệnh nhân nhóm dùng ống hút. Tỷ lệ tử vong ở ngày 90 của nhóm dùng stentriever và nhóm dùng ống hút lần lượt là 17,6% và 18,2%, khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết luận. Lấy huyết khối cơ học bằng phương pháp dùng ống hút có hiệu quả và tính an toàn tương đương với phương pháp dùng stentriever, nhưng thời gian can thiệp ngắn hơn đáng kể ở nhóm dùng ống hút.
#Lấy huyết khối cơ học #stentriever #ống hút #nhồi máu não cấp tính
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT LẤY HUYẾT KHỐI BẰNG DỤNG CỤ CƠ HỌC SOLITAIRE Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP DO TẮC MẠCH MÁU LỚN TẠI BVĐK TỈNH THANH HÓA
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 1 - 2021
Mục tiêu: (1) Đánh giá kết quả điều trị can thiệp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire ở bệnh nhân nhồi máu não tối cấp. (2)Tìm yếu tố liên quan đến tiên lượng kết cục phục hồi chức năng thần kinh tại sau 3 tháng can thiệp. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu loạt  35 trường hợp nhồi máu não tối cấp, trong vòng 6 giờ từ khi khởi phát, điều trị bằng phương pháp lấy huyết khối bằng dụng cụ cơ học Solitaire, tại khoa Thần kinh – Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa từ tháng 4/2019 đến tháng 4/ 2020. Kết quả: Tuổi trung bình 64.57± 10.20, tỷ lệ nam/nữ 1/1.06, điểm NIHSS trung bình lúc vào viện  13,22 ± 5,38 điểm, trung vị 13 điểm; tăng huyết áp 71.43%, đái tháo đường 25.71%, xơ vữa động mạch lớn 54.29%, rung nhĩ 34.29%, suy tim 20%, bệnh lý van tim 17.14%. Điểm trung vị các thang điểm tiên lượng: ASPECT, HAT, DRAGON, ASTRAL lần lượt là 7, 1, 5, 25 điểm. Dấu hiệu tăng tỷ trọng động mạch não giữa đoạn M1 trên chụp cắt lớp vi tính (CT) chiếm 37.14%.  Tắc động mạch cảnh trong kết hợp M1 động mạch não giữa chiếm 28.57%, tắc động mạch não giữa đơn thuần chiếm 62.86%, tắc động mạch thân nền chiếm 8.57%. Nguyên nhân bệnh mạch máu lớn chiếm 51.42%, huyết khối từ tim chiếm 34.29%, nguyên nhân không xác định chiếm 14.29%. Tái thông hoàn toàn (TICI 3) chiếm 42.86%, TICI 2b 17.14%, TICI 2a 20%. Xuất huyết não có triệu chứng chiếm 8.57%, phục hồi chức năng thần kinh tốt sau 3 tháng (mRS 0 – 2) chiếm 34.29%, tử vong sau 3 tháng chiếm 14.29%. Kết luận: Can thiệp lấy huyết khối đường động mạch bằng dụng cụ cơ học Solitaire cho loạt 35 bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não tối cấp cửa sổ điều trị dưới 6 giờ, cho thấy thành công về mặt kỹ thuật. Tỷ lệ có tái thông  cao (94.29%), trong đó tái thông hoàn toàn đạt 42.86%. Tỷ lệ xuất huyết não có triệu chứng chiếm 8.57%. Mức độ hồi phục chức năng thần kinh tốt (mRS 0 – 2)  tại thời điểm 3 tháng đạt 34.29%. Tử vong sau 3 tháng chiếm 14.29%. Cần tiếp tục nghiên cứu để có số liệu đầy đủ hơn trong những năm tiếp theo.
#Nhồi máu não tối cấp #lấy huyết khối cơ học #stent Solitaire
NGHIÊN CỨU CÁC DIỄN BIẾN BẤT LỢI Ở BỆNH NHÂN TẮC ĐỘNG MẠCH NÃO ĐƯỢC LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC CÓ ĐIỀU TRỊ BẮC CẦU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu các biến chứng do tái thông mạch mạch máu não bằng tiêu sợi huyết kết hợp lấy huyết khối cơ học. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não mạch lớn trước 270 phút, có chỉ định đồng thời tiêu sợi huyết liều 0.9mg/kg và lấy huyết khối cơ học. Đánh giá các diễn biến bất lợi, đặc biệt chảy máu não sau tái tưới máu. Kết quả: Với 35 bệnh nhân thu được, tỷ lệ tái thông mạch tốt (TICI 2b-c) là 94%, hồi phục tốt thời điểm 90 ngày là  62,9% (mRS 0-2). Tỷ lệ xuất huyết chuyển dạng là 37,1% trong đó chủ yếu là xuất huyết chuyển dạng không triệu chứng 10/13 bệnh nhân xuất huyết (76,9%). Ngoài ra có thể gặp một số diễn biến bất lợi khác như viêm phổi (5,8%), suy thận (5,85), suy giảm thần kinh sớm (8,6%). Kết luận: Xuất huyết chuyển dạng là biến chứng hay gặp sau điều trị tiêu sợi huyết kết hợp lấy huyết khối động mạch (37,1%)  nhưng kỹ thuật này vẫn là phương pháp hiệu quả trong điều trị đột quỵ não tắc mạch lớn.
#Đột quỵ não #tiêu sợi huyết #lấy huyết khối cơ học #xuất huyết chuyển dạng
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP DO TẮC NHÁNH M2 ĐỘNG MẠCH NÃO GIỮA
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị lấy huyết khối cơ học ở bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa tại Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 38 bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa được can thiệp lấy huyết khối cơ học tại Trung tâm Điện quang Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2018 đến tháng 6/2021. Kết quả: Tuổi trung bình của các bệnh nhân là 70.5 tuổi, điểm NIHSS trung bình lúc nhập viện là 14.26. Sau can thiệp, 89% tái thông mạch máu tốt (TICI = 2b-3) và 57.89% hồi phục lâm sàng tốt sau 3 tháng. Nhóm bệnh nhân đến viện sớm (trong vòng 3 giờ đầu tính từ thời điểm khởi phát triệu chứng) có tỷ lệ hồi phục lâm sàng tốt sau ba tháng cao gấp hơn 2 lần so với nhóm đến viện sau ba giờ. Điểm mRS tại thời điểm sau ba tháng thấp hơn có ý nghĩa so với thời điểm khi ra viện. Tỷ lệ biến chứng chảy máu nội sọ có triệu chứng, co thắt mạch não và vỡ huyết khối gây tắc mạch xa thấp (2,63-5,26%), không gặp các biến chứng khác như bóc tách hay rách lòng mạch trong quá trình can thiệp, máu tụ, giả phình vùng bẹn. Kết luận: Phương pháp can thiệp lấy huyết khối cơ học điều trị bệnh nhân nhồi máu não cấp do tắc nhánh M2 động mạch não giữa đạt được tỷ lệ cao tái thông mạch máu tốt. Đa số bệnh nhân có điểm NIHSS giảm từ 4 điểm trở lên và hồi phục lâm sàng tốt sau ba tháng. Thời gian đến viện sớm trong vòng ba giờ đầu tính từ thời điểm khởi phát và sự hồi phục tại thời điểm ra viện là các yếu tố ảnh hưởng đến phục hồi lâm sàng tốt sau ba tháng. Ít gặp các biến chứng chảy máu nội sọ có triệu chứng, co thắt mạch não và vỡ huyết khối gây tắc mạch xa.
#lấy huyết khối cơ học #nhồi máu não cấp #động mạch não giữa #bệnh viện Bạch Mai.
Tổng số: 33   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4